Luật sư là một nghề cao quý, luôn được xã hội trân trọng và tôn vinh. Trải qua 80 năm hình thành và phát triển (1945-2025), đội ngũ luật sư đã có những đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, việc bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của luật sư không chỉ là yêu cầu nội tại của nghề luật mà còn là điều kiện quan trọng để bảo vệ công lý, quyền con người và quyền công dân.
Bài viết phân tích cơ sở lý luận và pháp lý về quyền, nghĩa vụ của luật sư; đánh giá thực tiễn áp dụng Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan; chỉ ra những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hành nghề luật sư hiện nay. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất định hướng sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư và pháp luật chuyên ngành theo hướng tăng cường bảo đảm quyền hành nghề, nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp, hoàn thiện cơ chế giám sát – quản lý, đồng thời tạo lập môi trường pháp lý minh bạch, thuận lợi để đội ngũ luật sư phát huy vai trò trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Đặt vấn đề
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước, Trong tiến trình đó, luật sư với tư cách là một chủ thể độc lập trong hệ thống tư pháp thông qua việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình góp phần quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, quyền tiếp cận công lý, thúc đẩy sự minh bạch, dân chủ và pháp chế.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư theo Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) còn tồn tại không ít bất cập. Các quy định pháp luật chưa đồng bộ, việc triển khai trên thực tế còn bị cản trở, thậm chí có biểu hiện hình thức. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải sửa đổi Luật Luật sư và hệ thống pháp luật chuyên ngành để phù hợp với đòi hỏi của cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

Một số quy định hiện hành về thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư tại Việt Nam
Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012
Luật sư là một chủ thể hành nghề độc lập, chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Trong Nhà nước pháp quyền, luật sư không chỉ là người đại diện cho thân chủ, mà còn là một thành tố góp phần bảo vệ công lý, thực thi pháp luật và giám sát quyền lực Nhà nước.
Luật sư giúp bảo vệ các giá trị cốt lõi của Nhà nước pháp quyền: bảo vệ pháp luật, chống lại lạm quyền, bảo đảm quyền bào chữa và nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự. Tại một số quốc gia trên thế giới, luật sư được nhìn nhận và đánh giá ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Theo pháp luật Việt Nam, luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức[1]. Với ý nghĩa “nghề luật sư là nghề cao quý” do vậy đòi hỏi mỗi luật sư trong quá trình hành nghề phải có phẩm chất, đạo đức và tính chuyên nghiệp cao. Phẩm chất và năng lực cá nhân là yêu stoos quyết định trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Luật sư có thể hành nghề với tư cách cá nhân hoặc hành nghề với tư cách là luật sư thành viên của môt tổ chức hành nghề luật sư nào đó[2].
Quyền của luật sư: Quyền của luật sư là sự thể hiện ý chí của luật sư trong việc thực hiện hay không thực hiện một hành vi hay một công việc nào đó, được pháp luật công nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện trong xã hội, buộc các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt động luật sư phải tôn trọng, thực hiện.
Nghĩa vụ của luật sư: Nghĩa vụ của luật sư là những quy định mang ý nghĩa bắt buộc luật sư phải thực hiện hoặc không được thực hiện một hành vi hay một công việc nào đó trong phạm vi lĩnh vực hoạt đông hành nghề.
Quyền và nghĩa vụ của luật sư gắn liền với luật sư trong suốt quá trình thực hiện các dịch vụ pháp lý cho dù dịch vụ pháp lý đó là miễn phí hay có thù lao. Quyền của luật sư không tách rời nghĩa vụ của luật sư.
Thực hiện quyền và nghĩa vụ luật sư: Có thể hiểu đó là hành động của luật sư nhằm cụ thể hóa các quyền và nghĩa vụ của mình vào thực tiễn giải quyết các vụ việc để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, của bản thân luật sư và của khách hàng. Việc luật sư thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình không nằm ngoài nguyên tắc tuân thủ pháp chế XHCN và tinh thần thượng tôn pháp luật.
Luật Luật sư năm 2006 đã thiết lập khuôn khổ pháp lý toàn diện đối với quyền và nghĩa vụ của luật sư, đồng thời cụ thể hóa trong từng lĩnh vực hành nghề. Về quyền, luật sư được phép hành nghề trên toàn lãnh thổ Việt Nam, lựa chọn hình thức và tổ chức hành nghề phù hợp theo luật định, mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài, cùng các quyền khác được quy định trong Luật. Về nghĩa vụ, luật sư phải tuân thủ nguyên tắc hành nghề, sử dụng biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng, tham gia tố tụng khi được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu, thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí và chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật[3].
Trước yêu cầu của thực tiễn và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Luật sư sửa đổi năm 2012 (có hiệu lực từ 01/7/2013) được ban hành nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020. Luật sửa đổi bổ sung hai quyền mới của luật sư, gồm quyền được pháp luật bảo đảm hành nghề và quyền đại diện cho khách hàng, cùng hai nghĩa vụ mới là tuân thủ nội quy, hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng và tham gia bồi dưỡng chuyên môn bắt buộc[4].
Quá trình hoàn thiện pháp luật qua các giai đoạn đã mở rộng phạm vi hành nghề của luật sư từ tư vấn pháp luật, tranh tụng, đại diện ủy quyền đến các dịch vụ pháp lý khác, có thể thu phí[5] hoặc miễn phí đối với khách hàng thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý[6]. Đồng thời, luật sư có một số nghĩa vụ nhất định phải thực hiện. Bên cạnh các nghĩa vụ liên quan đến khách hàng, liên quan đến cơ quan tiến hành tố tụng thì luật sư còn phải thực hiện nghĩa vụ liên quan đến đạo đức nghề nghiệp, trợ giúp pháp lý, bồi dưỡng chuyên môn và đóng phí thành viên cho Liên đoàn và Đoàn luật sư nơi mình là thành viên.
Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam
Cho đến nay, trong hoạt động nghề nghiệp luật sư, chúng ta đã trải qua 02 Điều lệ (Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam năm 2015 ban hành kèm Quyết định phê duyệt số 1573/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngày 28/8/2015) và Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam năm 2022 được ban hành kèm Quyết định số 856/QĐ-TTg ngày 19/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ). Liên quan đến quyền và nghĩa vụ của luật sư, về cơ bản cả hai Điều lệ đều thống nhất về nội dung, theo đó luật sư có các quyền cơ bản như quyền trong hoạt động hành nghề (giống quy định trong Luật Luật sư); quyền được hỗ trợ bảo vệ khi gặp rào cản hoạt động hành nghề; quyền tự ứng cử, đề cử nhân sự đại hội; quyền tham gia, xây dựng, phát triển các hoạt động của Đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam; quyền khiếu nại, quyền giám sát; quyền được bồi dưỡng chuyên môn… Đồng thời, luật sư có trách nhiệm tuân thủ các nghĩa vụ trong hoạt động hành nghề trong đó có các nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, trợ giúp pháp lý, đóng phí thành viên. Đặc biệt là sự tôn trọng đối với Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam…[7].
Pháp luật tố tụng hình sự
Xuất phát từ bản chất của vai trò, địa vị pháp lý mà luật sư được xác định là một chuyên gia, một cố vấn pháp luật. Luật sư thực hiện nhiệm vụ của mình bằng nhân phẩm, lương tâm, độc lập, liêm chính, nhân đạo và đôi khi bằng cả lòng dũng cảm[8]. Quá trình tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự, luật sư được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Nhìn chung, pháp luật tố tụng hình sự qua các thời kỳ đều hướng tới mục tiêu góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Bên cạnh đó, pháp luật tố tụng hình sự cũng quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng trong đó có luật sư. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hiện hành đã bám sát nhiều nội dung cụ thể, quan trọng, bổ sung theo hướng xác định rõ hơn vị trí, trách nhiệm, quyền hạn của người tham gia tố tụng trong đó có người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại; có quy định tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa; quy định rõ các quyền và biện pháp để người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự tiến hành tự thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa và giá trị pháp lý các tài liệu, đồ vật do họ cung cấp[9].
Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp
Hoạt động tham gia tố tụng
Theo quy định của pháp luật, luật sư tham gia tố tụng có thể với các tư cách khác nhau: người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người đại diện ủy quyền… Dù ở tư cách nào thì ngoài việc thực hiện quyền và nghĩa vụ bào chữa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng là các cá nhân, tổ chức, luật sư còn có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN.
Thực tiễn cho thấy, các vụ án có luật sư tham gia tố tụng phần nào đã giúp các cơ quan tiến hành tố tụng thận trọng hơn trong quá trình giải quyết vụ án, góp phần hạn chế những sai sót, vi phạm tố tụng, đồng thời bảo đảm tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bị hại, các đương sự trong vụ án, làm rõ sự thật khách quan, giải quyết công bằng, đúng pháp luật.
Theo thống kê chưa đầy đủ từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng và Liên đoàn Luật sư Việt Nam, từ năm 2007 cho đến hết năm 2023, 207.939 vụ án hình sự, 262.982 các vụ án thuộc lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính… có luật sư tham gia. Các vụ án chỉ định theo yêu cầu của cơ quan tố tụng đều có 100% luật sư tham gia đầy đủ[10]. Về cơ bản, trong những năm gần đây, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã khắc phục được tính hình thức. Chất lượng tranh tụng của luật sư tốt hơn. Các cơ quan tố tụng đã đánh giá đúng vị trí, vai trò của luật sư và tạo điều kiện tốt hơn cho luật sư khi tham gia tố tụng.
Bên cạnh những thuận lợi, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng cũng gặp không ít những rào cản. Về nguyên nhân chủ quan, một số luật sư còn chưa ý thức và chủ động trong việc cập nhập kiến thức pháp luật để nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng hành nghề. Điều này dẫn đến chất lượng tranh tụng của luật sư chưa cao. Luật Luật sư quy định cho luật sư quyền được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đó cũng là nghĩa vụ mà luật sư phải thực hiện. Sự thờ ơ đó có lẽ cũng do trong Luật chưa có chế tài áp dụng đối với những luật sư trong nhiều năm không bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
Về nguyên nhân khách quan, sự có mặt của luật sư khi tham gia tố tụng chưa nhận được sự quan tâm nhiều từ phía cơ quan tiến hành tố tụng. Luật sư không có mặt thì hoạt động hỏi cung vẫn diễn ra bình thường vì pháp luật tố tụng hình sự cho phép điều đó và không có chế tài áp dụng. Quyền im lặng của người bị buộc tội chưa thực sự được tôn trọng (ví dụ như ở Australia, người bị bắt có quyền im lặng đến khi có luật sư của mình bởi bất kỳ lời nói nào của người bị bắt cũng bị coi là chứng cứ và ảnh hưởng đến trách nhiệm của họ)[11].
Hoạt động tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác
Trong lĩnh vực hành nghề luật sư có hoạt động tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và thực hiện các dịch vụ pháp lý. Các hoạt động này đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài việc góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật, thực hiện các dịch vụ pháp lý của luật sư giúp tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh theo đúng pháp luật, tăng thu ngân sách. Sự tham gia tích cực của các luật sư trong quá trình tư vấn các dự án đầu tư, các giao dịch kinh doanh, thương mại góp phần phát huy nội lực, thu hút ngoại lực, thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Trong những năm gần đây, chất lượng tư vấn pháp luật của luật sư được nâng lên một bước và có những dấu hiệu khởi sắc. Nhiều luật sư đã tham gia tư vấn thành công cho nhiều hợp đồng, nhiều dự án lớn, được khách hàng trong và ngoài nước tin tưởng, đánh giá cao.
Theo báo cáo thống kê chưa đầy đủ của các Đoàn luật sư trong cả nước, trong năm 2024, đội ngũ luật sư Việt Nam đã tham gia vào các lĩnh vực hành nghề như sau: 16.057 vụ án hình sự trong đó có 8.856 vụ án hình sự chỉ định và 7.201 vụ án hình sự được khách hàng mời; 11.766 vụ việc dân sự; 24.291 vụ việc tư vấn trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh thương mại; 413 vụ án hành chính và vụ án lao động; 28.899 vụ việc tư vấn pháp luật; 2.350 vụ việc đại diện ngoài tố tụng; 16.043 các dịch vụ pháp lý khác; 13.481 vụ việc trợ giúp pháp lý miễn phí[12].
Thực tiễn hoạt động nghề nghiệp luật sư cho thấy còn một số hạn chế bất cập. Về mặt khách quan, mảng dịch vụ pháp lý và đại diện ngoài tố tụng rất rộng, trong khi cơ chế và hành lang pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện nên việc sử dụng dịch vụ luật sư liên quan đến các công việc này của người dân, doanh nghiệp còn rất hạn chế, quyền và nghĩa vụ của luật sư trong các hoạt động này rất ít được đề cập đến, nhiều văn bản luật điều chỉnh về một số nội dung liên quan nên cách áp dụng, tổ chức thực hiện nhiều khi không thống nhất, có sự mâu thuẫn, chồng chéo. Về mặt chủ quan, phần đông người dân chưa có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý và đại diện ngoài tố tụng, bên cạnh đó, chất lượng cung cấp dịch vụ của luật sư về các phần công việc này trên thực tế còn rất hạn chế.
Hoạt động tham gia tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp lý, phản biện chính sách, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Ngoài các hoạt động tư vấn pháp luật, tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, sứ mệnh của luật sư còn phải thực hiện các hoạt động cộng đồng, thực hiện các nhiệm vụ chính trị pháp lý rất có ý nghĩa.
Hoạt động tuyên truyền pháp luật và trợ giúp pháp lý
Đây là một hoạt động mang ý nghĩa nhân văn, có vai trò quan trọng, là cầu nối để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân, góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật trong toàn xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Với ý nghĩa đó, luật sư tham gia ngày càng sâu rộng vào các hoạt động tuyên truyền pháp luật và trợ giúp pháp lý nhằm đóng góp một phần nhỏ thực hiện trách nhiệm bản thân trước cộng đồng xã hội.
Trong nhiều năm nay, hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý là hoạt động trọng tâm của các Đoàn luật sư hướng tới nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị pháp lý mà Đảng, Nhà nước giao phó. Những hoạt động này được đánh giá, tổng kết hàng năm.
Theo Báo cáo tổng kết công tác tổ chức và hoạt động Liên đoàn Luật sư Việt Nam các năm 2021, 2022, 2023, 2024, tổng cộng số vụ việc trợ giúp pháp lý mà luật sư của các Đoàn luật sư trên cả nước đã thực hiện là 46.611 vụ việc. Các luật sư tham gia hoạt động tuyên truyền pháp luật và trợ giúp pháp lý là sự chủ động trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt động nghề nghiệp, góp phần quan trọng trong việc nâng cao ý thức pháp luật cho cộng đồng.
Hoạt động phản biện chính sách, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hoạt động phản biện chính sách, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật được xác định là một nhiệm vụ chính trị pháp lý của đất nước. Do vậy, đối với luật sư, việc tham gia các hoạt động này không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ trong hoạt động hành nghề. Trong các năm 2021, 2022, 2023, 2024 giới luật sư đã tham gia rất nhiều các hoạt động phản biện chính sách, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Riêng Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã tham gia đóng góp, xây dựng 89 văn bản pháp luật và các văn bản khác theo yêu cầu của các cơ quan (Bộ Tư pháp, Đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố, Ban Cải cách tư pháp Trung ương và các cơ quan có liên quan…).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động này cũng cho thấy một số khó khăn do hành lang pháp lý chưa có sự thống nhất, một số quy định chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thực tiễn nên khó áp dụng, thiếu cơ chế khuyến khích luật sư tham gia vào hoạt động phản biện và trợ giúp pháp lý, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa; cơ chế phối hợp liên ngành về tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp lý và phản biện chính sách còn thiếu chặt chẽ. Vẫn còn tồn tại một bộ phận không nhỏ đội ngũ luật sư còn hạn chế về trình độ chuyên môn, năng lực và phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, làm ảnh hưởng lớn đến nhận thức về vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý, tuyên truyền pháp luật hay phản biện chính sách.
Một số kiến nghị
Trên cơ sở nhận diện những hạn chế, vướng mắc làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động hành nghề, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư, nhằm phát huy tối đa quyền hành nghề và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư, đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Thứ nhất, cần cụ thể hóa quyền thu thập chứng cứ, tài liệu của luật sư trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Điều này có nghĩa là cần xác định rõ phạm vi quyền của luật sư (tiếp cận, sao chụp, yêu cầu cung cấp), phương thức thực hiện quyền của luật sư (trực tiếp, bằng văn bản, qua cơ quan tố tụng), đồng thời quy định cơ chế bảo đảm thi hành thông qua nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc cung cấp thông tin, chứng cứ mà họ đang lưu giữ. Cần thiết lập chế tài xử lý trong trường hợp cố tình từ chối hoặc gây cản trở trái pháp luật đối với việc tiếp cận chứng cứ của luật sư. Việc này sẽ góp phần nâng cao tính bình đẳng giữa các bên trong tố tụng, nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư, bảo đảm quyền bào chữa và quyền tiếp cận công lý theo tinh thần Hiến pháp, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền và chuẩn mực quốc tế về quyền được xét xử công bằng.
Thứ hai, cần điều chỉnh, xem xét, đánh giá cho phù hợp mô hình tổ chức hành nghề luật sư tương ứng với hoạt động của luật sư, đặc biệt là tăng cường tính pháp lý của mô hình văn phòng luật sư để bảo đảm sự chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Theo đó, cần tăng cường địa vị pháp lý và cơ chế quản trị của mô hình văn phòng luật sư nhằm bảo đảm chặt chẽ, minh bạch và chuyên nghiệp trong vận hành. Bên cạnh việc duy trì tính linh hoạt của các hình thức tổ chức hành nghề (văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn), cần bổ sung các tiêu chuẩn về cơ sở vật chất, nhân sự, công nghệ thông tin, cũng như quy định về quản trị rủi ro và kiểm soát chất lượng dịch vụ pháp lý. Mục tiêu là vừa bảo vệ quyền hành nghề của luật sư, vừa nâng cao uy tín, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của các tổ chức hành nghề luật sư trong bối cảnh hội nhập.
Thứ ba, cần quy định chi tiết, cụ thể quyền và nghĩa vụ của luật sư trong việc đóng góp xây dựng văn bản pháp luật, phản biện chính sách. Theo đó, các quy định trong Luật Luật sư sửa đổi tới đây cần cụ thể hóa phạm vi tham gia của luật sư trong một số hoạt động như đóng góp ý kiến vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, tham gia phản biện chiến lược, kế hoạch phát triển, chính sách lớn của Nhà nước…, các phương thức thực hiện như thông qua Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư, hoặc trực tiếp theo cơ chế pháp luật cho phép và cơ chế bảo đảm tiếp thu ý kiến. Việc này không chỉ khẳng định vai trò xã hội của luật sư như một chủ thể phản biện chính sách chuyên môn cao, mà còn góp phần nâng cao chất lượng lập pháp và thực thi pháp luật, phù hợp với yêu cầu dân chủ hóa và minh bạch hóa hoạt động xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Thứ tư, cần quy định và thể chế hóa các quy định về mối quan hệ giữa Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư các tỉnh và các luật sư thành viên với tổ chức hành nghề luật sư để trên cơ sở đó phân định và giao trách nhiệm cụ thể cho từng vị trí, từng cơ quan trong mối quan hệ để gắn trách nhiệm và phối hợp triển khai nghề nghiệp, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện thể chế.
Cơ chế này phải bảo đảm sự phân định cụ thể về quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ giữa các cấp, tránh tình trạng chồng chéo hoặc buông lỏng quản lý. Cần bổ sung các quy định về phối hợp trong quản lý nghề nghiệp, hỗ trợ chuyên môn, bảo đảm đạo đức và ứng xử nghề nghiệp cũng như xử lý vi phạm. Việc này sẽ giúp tăng cường tính liên kết nội bộ, nâng cao hiệu quả tự quản của tổ chức luật sư, đồng thời phát huy tối đa vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân và đóng góp vào quá trình hoàn thiện thể chế pháp luật.
Kết luận
Một chiều dài lịch sử, một chặng đường 80 năm hình thành và phát triển, đội ngũ luật sư đã khẳng định vai trò quan trọng trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự thượng tôn pháp luật và củng cố niềm tin xã hội đối với nền tư pháp. Tuy nhiên, trong bối cảnh yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế – xã hội, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của luật sư, đặc biệt là Luật Luật sư và các pháp luật chuyên ngành liên quan đã bộc lộ không ít hạn chế, chưa tạo lập đầy đủ hành lang pháp lý để luật sư thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình.
Việc sửa đổi, hoàn thiện Luật Luật sư và pháp luật chuyên ngành theo hướng tăng cường bảo đảm quyền hành nghề, nâng cao trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát – quản lý hiệu quả là yêu cầu cấp thiết. Một hệ thống pháp luật minh bạch, đồng bộ, bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể tố tụng và khuyến khích luật sư tham gia sâu hơn vào hoạt động phản biện chính sách, xây dựng pháp luật sẽ giúp phát huy tối đa vai trò xã hội của nghề luật. Đây không chỉ là giải pháp kỹ thuật lập pháp, mà còn là bước đi chiến lược nhằm khẳng định vị thế, uy tín của luật sư, góp phần xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, liêm chính, thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
[1] Điều 2 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012. [2] Điều 23 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012. [3] Điều 21 Luật luật sư năm 2006. [4] Mục 12 Luật Luật sư sửa đổi bổ sung năm 2012. [5] Điều 55, 56, 57 Luật luật sư năm 2006. [6] Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. [7] Điều 29 Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam. [8] Nguyễn Văn Tuân, Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002, tr. 5. [9] Điều 73, Điều 83 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. [10] Số liêu tổng hợp từ Báo cáo số 411/BC-BCA-V03 ngày 27/3/2023 của Bộ Công an; Báo cáo số 26/BC-VKSNDTC ngày 10/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Báo cáo số 11/TANDTC-TH ngày 27/02/2023 của Tòa án nhân dân tối cao; Báo cáo tổng kết công tác tổ chức và hoạt động năm 2023 và phương hướng hoạt động năm 2024 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam. [11] Acting for the Client in Custody, Jame McInerney Bec, LLB Solicitor of the Supreme Court of New South Wales, Writtn July 2003, p. 5. [12] Báo cáo số 02/BC- LĐLSVN ngày 14/01/2025 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam về tổ chức, hoạt động năm 2024 và phương hướng hoạt động năm 2025.Luật sư LƯU THỊ NGỌC LAN
NCS Trường Đại học Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
Văn phòng Luật sư Hà Lan và cộng sự